August 24, 2013

[Overview]-Tăng trưởng phi lý - Tài chính hành vi

Theo phochungkhoan.vn

Trong cuốn sách “Tăng trưởng phi lý”, Robert Shiller cho rằng thị trường chứng khoán định giá cao trong năm 2000 và năm 2005 là phi lý. Cuốn sách bắt đầu với những đánh giá giá trị trong quá khứ dựa trên tỷ lệ PE. Shiller cho thấy, định giá trong hai giai đoạn này cao hơn nhiều so với những đỉnh đã lập vào năm 1901, 1929 và 1966
 
 
 
 
 
 
OVERVIEW - PHẦN V
 
TĂNG TRƯỞNG PHI LÝ - TÀI CHÍNH HÀNH VI
Tuy nhiên cuốn sách này không phải là nói về định giá. Thay vào đó, các tác giả xác định một loạt các yếu tố mang lại những tâm lý thái quá mang tính đầu cơ. Cuốn sách liệt kê 12 yếu tố đã tạo các biến động động lớn trên thị trường trong các giai đoạn 1995-2000 và 2002-2005. Shiller tiếp tục giải thích các cơ chế khuếch đại các yếu tố này. Cuốn sách cũng bao gồm các ảnh hưởng văn hóa và tâm lý cũng góp phần đóng góp để tạo nên các quyết định không hợp lý trong việc đầu tư. Sau khi giải thích những nỗ lực để hợp lý hóa hành vi bất hợp lý này, Shiller cung cấp một số giải pháp để ngăn chặn bong bóng đầu cơ trong tương lai.
Được lấy tên từ lời bình luận rất nổi tiếng năm 1996 của Cựu Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mĩ (FED) Alan Greenspan về sự bất hợp lý của thị trường chứng khoán. Cuốn sách được xuất bản lần đầu vào năm 2000 và trùng hợp với đỉnh của Nasdaq cùng năm đó. Không cần phải nói, thời gian là câu trả lời chính xác nhất cho sự kiện này. Ấn bản thứ hai được xuất bản vào năm 2005 với chỉ số S&P 500 tăng khoảng 50% từ mức thấp năm 2002 và tiếp tục thêm 30% trước khi khủng hoảng tài chính xảy ra gây sự sụt giảm lớn trong năm 2008.
QUAN HỆ VỚI PHÂN TÍCH KỸ THUẬT :
Nhiều lý thuyết được đưa ra trong cuốn sách này nói về lĩnh vực tài chính hành vi hay kinh tế học hành vi. Tài chính hành vi được coi là một nhánh của phân tích kỹ thuật. Cuốn sách “Tăng trưởng phi lý” là tài liệu bắt buộc phải đọc cho kỳ thi CMT (Charterd Market Technician) năm 2011. Tài chính hành vi là một môn khoa học nghiên cứu để hiểu hành vi của các nhà đầu tư và các tổ chức khi đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản, hoa tulip hoặc các công cụ tài chính khác. Những gì khiến các cá nhân mua hoặc bán một loại chứng khoán? Các nhà đầu tư sẽ làm gì khi gặp rủi ro hay thua lỗ? Tại sao bong bóng đầu cơ xuất hiện và sau đó đổ vỡ? Là khoảng tiền đầu tư ngu ngốc hay thông minh? Shiller làm sáng tỏ quá trình đầu tư bằng cách nêu bật những yếu tố quan trọng dẫn đến sự tăng trưởng phi lý trong cuối những năm 1990.
CẤU TRÚC :
Shiller xác định 12 yếu tố cấu trúc góp phần vào sự gia tăng chưa từng có trong giá cổ phiếu 1995-2000. Ngay cả sau khi sự suy giảm lớn vào mức thấp năm 2002, một lần nữa cổ phiếu vẫn được đính giá quá cao một vài năm sau đó.
 
1. Sự bùng nổ của tư bản chủ nghĩa và xã hội tư hữu khuyến khích đầu tư chứng khoán. Việc xây dựng Chủ nghĩa cộng sản và Chủ nghĩa xã hội điển hình là ở Nga và Trung Quốc hơn 20 năm qua đã mở đường cho tư bản. George W. Bush thúc đẩy xã hội bằng cách ủng hộ quyền sở hữu tài sản và cổ phiếu cho tất cả người dân. Việc giảm biên chế của công ty và sự suy giảm của các công đoàn lao động khiến đại đa số người dân muốn tự quyết định số phận của mình vào tay của mình và tinh thần kinh doanh của họ trỗi dậy. Các công ty thì giữ tiền lương của họ để thực hiện các hợp đồng quyền chọn.
 
2. Thay đổi văn hóa và chính trị góp phần cho thành công kinh doanh. Có sự gia tăng đáng kể trong giá trị vật chất trong năm. Shiller cho rằng nhiều người xem tiền là quan trọng để thành công trong giữa thập niên 90 hơn trong giữa thập niên 70. Xã hội xem trọng một doanh nhân thành đạt hơn một nhà khoa học hay một nghệ sĩ. Đại hội đảng Cộng hòa năm 1995 đã đề xuất cắt giảm vốn tăng thuế và nó đã được cắt giảm trong năm 1997. Tiếp tục cắt giảm đã được đề xuất ngay sau đó. Những cắt giảm thuế cũng như dự đoán cắt giảm thuế trên thặng dư vốn tương lai sẽ ưu đãi để mua cổ phiếu.
 
3. Công nghệ thông tin mới sản sinh ra thời đại mới. Điện thoại di động đầu tiên xuất hiện trong đầu những năm 1980, đó là khi thị trường tăng lớn bắt đầu. Internet đến tuổi trưởng thành vào giữa năm 1990 và phát triển nhanh chóng trong năm năm sau đó. Các nhà đầu tư xem cuộc cách mạng Internet này như là một thay đổi cuộc chơi để biện minh cho sự bùng nổ thị trường chứng khoán.
 
4. Chính sách tiền tệ của Greenspan đã nhận thức rủi ro trong phương trình. FED đã làm gì để ngăn chặn thị trường chứng khoán tăng mạnh từ 1995 đến 1999? Lãi suất không tăng cho đến tháng 8 năm 1999. Ngoài việc cho phép bong bóng tăng trưởng, FED chỉ ra rằng nó sẽ ở đó để nhận các mảnh bất cứ điều gì đi sai, giống như năm 1987 và năm 1998. Việc chờ đợi của FED trong trường hợp của một vụ tai nạn thị trường giống như việc sở hữu một lựa chọn bán.
 
5. Những tác động nhận thức của thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh. Có thực sự là một sự bùng nổ sau khi Thế chiến II bùng nổ và điều này dẫn đến một số lượng lớn người trong độ tuổi 35-55 trong năm 2000. Tuy nhiên, Shiller bác bỏ những dữ liệu mà không có mối tương quan giữa sự bùng nổ và thị trường chứng khoán tăng mạnh. Thay vào đó, Shiller cho rằng, như với Internet, nhận thức của công chúng về ảnh hưởng của sự bùng nổ giúp thổi phồng thị trường chứng khoán.
 
6. Việc gia tăng của phương tiện truyền thông trong năm 1990 chắc chắn góp phần khiến mọi người quan tâm đến thị trường chứng khoán. Không cần thiết giải thích nhiều ở đây. Báo chí đã thổi phòng sự thật để thu hút độc giả. Những câu chuyện hay thay thế cho những tin tức nhàm chán. Tăng tiếp xúc với phương tiện truyền thông dẫn đến nhiều quảng cáo hơn nữa và điều này đơn giản chỉ là làm thỏa mãn sự thèm khát của cộng đồng đối với cổ phiếu. Giới truyền thông tiếp tục ra mắt công chúng một sự kiện mới Mad Money trong năm 2005.
 
7. Các nhà phân tích ước tính lạc quan thái quá thường xuyên diễn ra trong năm 1990 vừa qua. Shiller lưu ý rằng báo cáo của Zachs khuyến nghị bán trên 9,1% của cổ phiếu trong năm 1989 và chỉ 1% cổ phiếu vào cuối năm 1999. Các nhà phân tích e ngại ban hành khuyến nghị bán bởi vì nhiều công ty cũng đã có quan hệ ngân hàng đầu tư. Các nhà phân tích cũng không muốn đụng chạm đến công ty bởi vì có thể sau đó họ sẽ không được cung cấp hướng dẫn hoặc thông tin quan trọng.
 
8. Defined-Contribution Pension Plans [Chương trình hưu trí xác định trước tiền đóng góp ] - Là chương trình hưu trí, trong đó các khoản tiền đóng góp được ấn định trước theo công thức, còn các quyền lợi hưu trí được hưởng thì thay đổi. Phương pháp này thường được những tổ chức biết trước các khoản chi trả tiền hưu trong những năm sau áp dụng. Ví dụ: các tổ chức phi lợi nhuận như tổ chức từ thiện cần phải hoạch định các khoản chi trả tiền hưu trong tương lai, để các chi phí này không vượt quá giới hạn quy định. Việc này tạo điều kiện thuận lợi để lập quỹ và định hướng tài trợ cho các quỹ.] phát triển và thay thế các Defined-Benefit Plans [Kế hoach định hạn mức phúc lợi - các khoản chi trả thu nhập trong tương lai (phúc lợi) được ấn định trước]. Trong số những thứ khác, sự suy giảm trong các đoàn thể và các ngành công nghiệp sản xuất lớn (ô tô) đóng góp vào xu hướng này. Nhiều người cũng muốn kiểm soát các quỹ hưu trí của họ. Những Defined-Benefit Plans mà họ phải đưa ra những lựa chọn đầu tư của mình và điều này làm tăng tiếp xúc với cổ phiếu.
 
9. Số lượng các quỹ tương hỗ tăng mạnh. Từ năm 1982 đến năm 1998, số lượng các quỹ tương hỗ lớn gấp mười lần (từ 340 lên đến 3513). Có một thời gian số quỹ tương hỗ nhiều hơn cả số cổ phiếu niêm yết trên NYSE. Quỹ tương hỗ đã trở thành một dạng đặc biệt của 401K [Quỹ hưu trí 401K là một hình thức bù đắp công lao của người lao động khi chủ hãng mở một quỹ hưu mang tên người lao động và đều đặn bỏ vào quỹ một phần lương chưa đóng thuế của người này. Với chương trình trợ giúp hưu trí 401K, người công nhân không phải đóng thuế tạm thu trên phần lương bỏ vào quỹ vì số tiền này không ghi trên bảng lương, nhưng họ phải đóng thuế An Sinh Xã Hội (FICA) và Y Tế trên nguồn lợi tức trích bỏ vào quỹ hưu 401K]. Tiền di chuyển vào các quỹ tương hỗ từ 401K và các nhà đầu tư cá nhân tìm thấy đường vào thị trường chứng khoán để nuôi các bong bóng. Shiller cũng lưu ý rằng sự phát triển của quảng cáo đã góp phần cho sự tăng trưởng phi lý này và nâng nhận thức công chúng lên tầm cao mới.
 
10. Lạm phát “lành tính” tạo ra những ảo ảnh của sự giàu có và thịnh vượng. Sau khi lạm phát phi mã trong những năm 70, triển vọng lạm phát dần được cải thiện từ năm 1982. Nghiên cứu của Shiller đã phát hiện thấy rằng lạm phát nào cũng liên kết với sự thịnh vượng kinh tế và an sinh xã hội. Nhận thức như thúc đẩy kỳ vọng tích cực cho nền kinh tế và thị trường chứng khoán.
 
11. Sự bùng nổ của khối lượng giao dịch giữ giá mua trong các bong bóng. Lợi tức tăng cao trong thị trường chứng khoán và hoa hồng giảm đáng kể tạo điều kiện cho một sự đột biến trong khối lượng giao dịch trên các sàn giao dịch chứng khoán. Sự phát triển giao dịch trực tuyến cũng tạo điều kiện tăng lợi tức giúp cho cổ phiếu giao dịch dễ dàng hơn và thường xuyên hơn.
 
12. Có sự gia tăng tình trạng cờ bạc trong những năm đó. Chính phủ xử phạt đánh bạc (xổ số) còn cờ bạc thương mại lại được phổ biến rộng rãi trong những năm qua. Người chơi Poker đã trở thành ngôi sao. Xổ số giải đặc biệt đã được quảng bá rầm rộ. Quảng cáo bóng bẩy miêu tả như cờ bạc tinh vi và càng ngày xu hướng chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư ngày càng tăng. Cờ bạc trực tuyến tạo điều kiện cho việc tăng trưởng nhanh chóng.
CƠ CHẾ KHUẾCH ĐẠI :
Nếu như các yếu tố cấu trúc liệt kê ở trên là chưa đủ, thì Shiller cho rằng đó là cơ chế khuếch đại tăng cường sự ảnh hưởng. Đầu tiên, đó là một sự thay đổi trong thái độ của nhà đầu tư đối với cổ phiếu. Vào cuối năm 1990 cổ phiếu được coi là một khoản đầu tư dài hạn. Jeremy Siegel xuất bản lần đầu cuốn sách “Cổ phiếu cho đầu tư dài hạn” (Stocks for the Long Run) trong năm 1994. Phiên bản tiếp theo đã được phát hành vào năm 1998, 2002 và 2007. Cổ phiếu thực sự đã hoạt động tốt từ năm 1995 đến năm 2000, khi chỉ số S&P 500 đạt mức cao xung quanh 1550. Nhưng sau đó, chỉ số S&P 500 đã trãi qua 10 năm cho giai đoạn kém hiệu quả. Vì thực tế, chỉ số S&P 500 giao dịch dưới 2000 vào đầu năm 2011. Điều này có nghĩa là 11 năm trở lại không tốt cho các nhà đầu tư mua và nắm giữ đã mua trong năm 2000.
Thứ hai, như suy luận trên, Shiller khẳng định rằng nhận thức của công chúng đến thị trường chứng khoán đã tăng cao trong những năm 1990. Nhận thức cao này khiến các nhà đầu tư kiếm được nhiều tiền hơn dành cho các cổ phiếu. Các phương tiện truyền thông thỏa mãn sự cuồng dại của công chúng với mức độ bao phủ thông tin tăng lên. Cuộc trò chuyện bên bữa ăn tối với chủ đề chính luôn luôn là thị trường chứng khoán. Lời khuyên và tư vấn chứng khoán được cũng dễ dàng chia sẻ giữa những người quen biết.
 
Thứ ba, sự gia tăng ổn định trong giá cổ phiếu đã tạo ra một vòng phản hồi giữ sự chú ý của công chúng về chứng khoán. Như các phương tiện thông tin báo cáo sự gia tăng trong các thị trường chứng khoán, dòng tiền tìm đường vào thị trường chứng khoán và đẩy giá cao hơn. Giá cao hơn dẫn đến nhiều tin tức và tin tức hơn dẫn đến nhiều tiền đầu tư. Một thông tin phản hồi vòng phát triển tăng giá dẫn đến giá tăng nhiều hơn. Shiller gọi các cơ chế tự nhiên "Huy động vốn hình tháp" [Ponzi scheme: đầu tư lừa đảo, một dạng đầu tư mà lấy tiền đầu tư của nhà đầu tư thứ cấp trả tiền cho nhà đầu tư sơ cấp (ban đầu) chứ không phải do lãi thực sự; kiểu huy động vốn phổ biến ở VN. Mượn người sau để trả lãi + vốn cho người trước, cứ thế kéo dài cho đến khi vỡ nợ] vì chúng nuôi dưỡng bằng nhận thức của thành công trước đó.
 
YẾU TỐ VĂN HÓA :
 
Các phương tiện truyền thông và thời đại mới là một trong những yếu tố văn hóa được đề cập trong quyển sách của Shiller. Vâng, các phương tiện truyền thông dường như liên tục xuất hiện trong cuốn sách của ông. Có lẽ đó là lý do tại sao các nhà phân tích kỹ thuật chỉ nhìn vào biểu đồ giá!

Các bong bóng đầu cơ rõ ràng đã được hỗ trợ và tiếp tay bởi các phương tiện truyền thông. Báo chí, truyền hình, phát thanh, phương tiện truyền thông Internet cạnh tranh để được sự chú ý của công chúng. Những câu chuyện giật gân nghe có nhiều khả năng thu hút sự chú ý hơn phân tích xám xịt với những con số và sự kiện. Mặc dù không chú ý đến chi tiết, các phương tiện truyền thông lúc nào cũng có lý do cụ thể cho một động thái thị trường chứng khoán. Các phương tiện truyền thông luôn luôn tìm thấy lý do hoặc tin tức sự kiện hoàn hảo để biện minh cho việc di chuyển - sau khi thực tế đã diễn ra. Nó giống như một giải pháp là tìm kiếm của vấn đề.
 
Shiller lưu ý rằng tin tức về sự thay đổi giá là có ảnh hưởng đến hành vi nhà đầu tư. Sau sự kiện ngày thứ hai đen tối 19 tháng 10 năm 1987 (ngày mà chỉ số bình quan công nghiệp Dow Jones giảm 22,6% và tình trạng trương tự xảy ra đồng thời khắp thế giới), Shiller đã làm một cuộc khảo sát để liệt kê tất cả các sự kiện tin tức gần đây chúng dường như có liên quan đồng thời để đánh giá những sự kiện đó. Trong danh sách này cũng có sự kiện chỉ số Dow Jones giảm do tin tức của ngày 14 tháng 10 (nhà tiên tri “guru” Robert Prechter đưa ra một dấu hiệu cho thấy xu hướng giảm khi thị trường mở cửa). Cho đến thời điểm đó, đây là sự suy giảm lớn nhất trong một ngày của chỉ số Dow Jones. Đáng ngạc nhiên, những câu chuyện liên quan đến việc giảm giá trong quá khứ đã được coi là sự kiện tin tức quan trọng nhất. Như Shiller đã phát biểu:
Vì vậy, có vẻ như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán có đủ để tạo thành một vòng phản hồi tâm lý đầu tư chung từ giá bán giảm và do đó tiếp tục giảm giá, và xuyên suốt trong quá trình hình thành bong bóng tiêu cực. Dường như không có bất kỳ tin tức gì đặc biệt hơn so với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, mà là với các lý thuyết về lý do các nhà đầu tư khác để bán và về tâm lý của họ.
Tư duy kinh tế thời đại mới cũng đã được trích dẫn trong cuốn sách này của Shiller, đây là một yếu tố văn hóa góp phần vào bong bóng thị trường chứng khoán. Suy nghĩ về kỷ nguyên mới không phải là mới. Thị trường chứng khoán tăng trưởng vào cuối năm 1800, năm 1920 và năm 1960 cũng được củng cố bởi suy nghĩ về kỷ nguyên mới. Ở đỉnh cao năm 1901, suy nghĩ kỷ nguyên mới tập trung xung quanh đường sắt, tín thác công nghiệp lớn và kỷ nguyên của sự lạc quan. Sự thinh vượng của thế kỷ 20 được đánh dấu bởi thời kỳ phát triển thiết bị điện tử và việc sử dụng xe ô tô ở các thành phố lớn. Năm 1960 được đánh dấu bằng một sự bùng nổ trẻ sơ sinh đến tuổi về già, sự phát triển của truyền hình và lạm phát thấp. Và cuối cùng, năm 1990 đã thấy sự bùng nổ Internet, lạm phát thấp, nền kinh tế mới và bị cho là đang ở giai đoạn cuối của chu kỳ kinh tế.
Shiller lưu ý rằng tin tức về sự thay đổi giá là có ảnh hưởng đến hành vi nhà đầu tư. Sau sự kiện ngày thứ hai đen tối 19 tháng 10 năm 1987 (ngày mà chỉ số bình quan công nghiệp Dow Jones giảm 22,6% và tình trạng trương tự xảy ra đồng thời khắp thế giới), Shiller đã làm một cuộc khảo sát để liệt kê tất cả các sự kiện tin tức gần đây chúng dường như có liên quan đồng thời để đánh giá những sự kiện đó. Trong danh sách này cũng có sự kiện chỉ số Dow Jones giảm do tin tức của ngày 14 tháng 10 (nhà tiên tri “guru” Robert Prechter đưa ra một dấu hiệu cho thấy xu hướng giảm khi thị trường mở cửa). Cho đến thời điểm đó, đây là sự suy giảm lớn nhất trong một ngày của chỉ số Dow Jones. Đáng ngạc nhiên, những câu chuyện liên quan đến việc giảm giá trong quá khứ đã được coi là sự kiện tin tức quan trọng nhất. Như Shiller đã phát biểu:

"Có vẻ như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán có đủ để tạo thành một vòng phản hồi tâm lý đầu tư chung từ giá bán giảm và do đó tiếp tục giảm giá, và xuyên suốt trong quá trình hình thành bong bóng tiêu cực. Dường như không có bất kỳ tin tức gì đặc biệt hơn so với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, mà là với các lý thuyết về lý do các nhà đầu tư khác để bán và về tâm lý của họ "
 
Tư duy kinh tế thời đại mới cũng đã được trích dẫn trong cuốn sách này của Shiller, đây là một yếu tố văn hóa góp phần vào bong bóng thị trường chứng khoán. Suy nghĩ về kỷ nguyên mới không phải là mới. Thị trường chứng khoán tăng trưởng vào cuối năm 1800, năm 1920 và năm 1960 cũng được củng cố bởi suy nghĩ về kỷ nguyên mới. Ở đỉnh cao năm 1901, suy nghĩ kỷ nguyên mới tập trung xung quanh đường sắt, tín thác công nghiệp lớn và kỷ nguyên của sự lạc quan. Sự thinh vượng của thế kỷ 20 được đánh dấu bởi thời kỳ phát triển thiết bị điện tử và việc sử dụng xe ô tô ở các thành phố lớn. Năm 1960 được đánh dấu bằng một sự bùng nổ trẻ sơ sinh đến tuổi về già, sự phát triển của truyền hình và lạm phát thấp. Và cuối cùng, năm 1990 đã thấy sự bùng nổ Internet, lạm phát thấp, nền kinh tế mới và bị cho là đang ở giai đoạn cuối của chu kỳ kinh tế.
 
YẾU TỐ TÂM LÝ :
 
Shiller khẳng định rằng đây là xu hướng của việc "tự tin thái quá với những niềm tin". Hơn nữa, người ta thường dựa vào trực giác khi đưa ra quyết định đầu tư. Quá trình ra quyết định không dựa trên những sự kiện được xem xét cẩn thận và chứng minh bởi các con số và dữ liệu. Thay vào đó, các nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư dựa trên ý kiến của người khác. Điều này xuất phát từ sự cần thiết để được thỏa mãn. Các nhà đầu tư đưa ra quyết định dựa trên "những tin tốt" hoặc những câu chuyện có vẻ hợp lý. Bởi vì mọi thông tin mà họ nhận được đều đến từ cùng nguồn gốc, có rất ít hoặc không có dấu hiệu nào  về hành động độc lập mà thay vào đó, mỗi cá nhân nhận được thông tin và phản ứng tương tự nhau theo cùng một cách tạo ra một lý bầy đàn.
 
TỔNG KẾT :
 
Shiller xác định một số yếu tố đáng tin cậy có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trong những năm diễn ra bong bóng. Nhiều yếu tố này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay và phân tích của ông cung cấp những điều đáng suy nghĩ khi xem xét tài chính hành vi. Shiller cung cấp nhiều yếu tố và dẫn chứng cụ thể trong cuốn sách của ông nhưng không phải yếu tố ảnh hưởng nào cũng được liệt kê trong bài viết này. Sau khi xem xét thị trường hiệu quả, bước đi ngẫu nhiên, bong bóng và thái độ của nhà đầu tư, Shiller cũng cung cấp một số biện pháp khắc phục "biến động đầu cơ trong một xã hội tự do".

Tài chính hành vi có thể giúp chúng ta hiểu những gì đang xảy ra, nhưng chỉ hiểu không có thể không giúp ích gì cho việc kiếm tiền trong thị trường chứng khoán. Trong khi phiên bản đầu tiên được phát hành trùng vào thời điểm đỉnh cao của thị trường chứng khoán trong năm 2000, thị trường chứng khoán đã tăng thêm 30% sau khi ấn bản thứ hai được công bố trong tháng 2 năm 2005. Đã tồn tại việc định giá sai các cổ phiệu, nhưng thị trường vẫn tồn tại sự bất hợp lý này lâu hơn nhiều so với những giai đoạn làm gì của các nhà đầu cơ. Nói cách khác, đã có nhiều người mất tiền vì bán cổ phiếu quá sớm vào đầu năm 2005 trong khi cổ phiếu vẫn tiếp tục tăng trưởng sau đó. Shiller đã không đề cập đến những dẫn chứng về việc định giá sai trong quá của thị trường chứng khoán. Nhưng điều này là hoàn toàn có thể và hiển nhiên là nó đã xảy ra như vậy.
 
Hơn nữa, có ai dám khẳng định giá trị thực sự của cổ phiếu đó là bao nhiêu? Giá trị của tài sản bất kỳ chỉ là những gì mà một người nào đó sẵn sàng trả tiền cho nó. Như đối với cổ phiếu được trao tay trên Wall Street được định giá hàng ngày. Chẳng qua nó chỉ là xu hướng giá, định giá cũng từ xu hướng định giá quá cao đến định giá quá thấp. Cổ phiếu bị định giá quá cao vào đầu năm 2000 và bị đánh giá quá thấp tháng 3 năm 2009. Nó sẽ xuất hiện một kỹ thuật để lựa chọn thời điểm, khi nào sẽ cần tránh vào thị trường đang đợt giảm mạnh và vào thị trường khi có đợt tăng mạnh. Hmm ... Nghe có vẻ như phân tích kỹ thuật !
 
Phochungkhoan.vn

No comments:

Post a Comment