June 28, 2013

Vinacomin lặp lại lời nguyền khoáng sản

Theo Toi thich doc,

Việc Vinacomin đề xuất giảm thuế suất thuế xuất khẩu không phải vì lỗ hay vì giá than bán cho nhiệt điện thấp mà sự thật là Vinacomin không còn khả năng xuất khẩu được nữa.

‘Vinacomin xin giảm thuế suất xuất khẩu thực chất Vinacomin đang hết ruộng cày, không còn khả năng xuất khẩu nữa. Trong khi đó, doanh nghiệp trong nước cũng không dùng loại than của Vinacomin do nhiệt năng thấp, giá thành cao’ - TS Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc BQL các dự án Than ĐBSH-Vinacomin phân tích.


TS Nguyễn Thành Sơn

Tư duy ỉ lại...
PV:- 6 tháng trước, Vinacomin đã xin được giảm thuế xuất khẩu và đã được Bộ Tài chính thông qua, điều chỉnh từ mức 20% xuống còn 10%. Mới chỉ sau 6 tháng, giờ đây Vinacomin lại viện dẫn, "với giá than xuất khẩu hiện nay sau khi trừ 10% thuế xuất khẩu và thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ cũng chỉ đủ bù đắp giá thành, không thể bù được than cho điện”. Là một chuyên gia trong ngành, ông nghĩ sao trước việc Vinacomin khai thác khoáng sản thiên nhiên, tài nguyên có sẵn đem bán rồi lại còn làm mình làm mẩy đòi hỏi chính sách ưu đãi đặc biệt như vậy?

TS Nguyễn Thành Sơn:- Việc Vinacomin đề xuất giảm thuế suất thuế xuất khẩu không phải vì lỗ hay vì giá than bán cho nhiệt điện thấp mà sự thật là Vinacomin không còn khả năng xuất khẩu được nữa do chất lượng than đã và đang ngày càng giảm.

Tỷ lệ than tốt (đạt tiêu chuẩn Việt Nam- TCVN) chỉ chiếm 30-40%, còn lại là than chất lượng thấp (lẫn nhiều đất đá, độ tro cao).

Trước kia, Vinacomin lý giải cho việc cần phải xuất khẩu than là do Vinacomin sản xuất ra nhiều than chất lượng cao mà trong nước không dùng đến. Nhưng trên thực tế, những loại than tốt được xuất khẩu không phải là nhiều (chỉ bán được cho các nhà máy thép và xi măng của Nhật), chủ yếu là than chất lượng trung bình và thấp (được các khách hàng Trung Quốc mua về dùng cho các nhà máy điện).

Gần đây (khoảng 2 tháng trước), phía Trung Quốc đã ban hành chính sách cấm nhập khẩu than chất lượng thấp (nhiệt năng dưới 4050 kcal/kg) để phát điện vì lý do môi trường. Vì vậy, Vinacomin đang có nguy cơ mất 70-80% thị trường xuất khẩu than chất lượng thấp là Trung Quốc.

Còn ở trong nước, nhiều doanh nghiệp khu vực miền Trung, miền Nam đã và đang chuyển sang nhập khẩu than về dùng vì việc vận chuyển than lẫn nhiều đất đá từ Quảng Ninh vào đã làm cho giá than trong nước còn cao hơn giá than nhập từ nước ngoài về Việt Nam.

Nếu tính theo đơn vị nhiệt năng, giá bán than trong nước của Vinacomin cao nhất thế giới, vì giá thành khai thác than của Vinacomin cũng đang cao nhất thế giới.

Vì vậy, con đường sống duy nhất của Vinacomin là phải tăng cường quản lý chi phí sản xuất, đầu tư theo chiều sâu để giảm giá thành, tự nâng cao sức cạnh tranh của than trong nước.

Bản chất hiện nay là Vinacomin đang bị mất khả năng cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước. Không thể có chính sách ưu đãi nào có thể cứu được Vinacomin nếu chi phí sản xuất cứ tăng bình quân mỗi năm trên 10% như hiện nay.

PV:- Vinacomin cũng đề xuất xem xét cơ chế thuế suất thuế xuất khẩu than theo mức giá than trên thị trường thế giới bình quân hàng quý. Cụ thể, thuế suất sẽ là 10% khi giá than bình quân (tính theo loại cám 11AHG) dưới 75USD/tấn, tăng lên 15% khi giá than từ 75 đến dưới 85USD/tấn và lên 20% khi giá than vượt trên 85USD/tấn. Ông có ý kiến gì trước đề xuất này của Vinacomin?

TS Nguyễn Thành Sơn: -Tôi không quan tâm đến các con số cụ thể. Tôi nghĩ Vinacomin nên tự xem xét lại bản thân mình trước khi “nhìn” sang người khác. Vinacomin chỉ thích so sánh thuế xuất khẩu với thế giới, còn các yếu tố khác thì lại cố tình lờ đi.

Ở trong nước, so với các ngành kinh tế khác, ngành khai thác khoáng sản có ưu thế đặc biệt là trong chi phí sản xuất không có khoản mục nguyên liệu chính, trong khi các ngành khác khoản mục nguyên liệu chính đầu vào thường phải chiếm 30-40% tỷ trọng trong giá thành sản xuất. Chính vì vậy, so với các ngành khác thì Vinacomin đã cạnh tranh không công bằng (đòi hỏi quá nhiều ưu đãi riêng).

Trên thế giới, cơ chế chính sách, khai thác khoáng sản khác hoàn toàn Việt Nam. Ở các nước ngoài nếu muốn khai thác họ phải bỏ tiền mua mỏ của nhà nước thông qua đấu giá, đấu thầu mỏ với giá từ hàng trăm triệu đô, thậm chí hàng nhiều tỉ đô.

Ở Việt Nam, than, khoáng sản là tài nguyên thuộc sở hữu toàn dân, nhưng lại được nhà nước giao gần như cho không để Vinacomin khai thác.

Nếu khai thác chỉ để đáp ứng nhu cầu trong nước thì có thể còn “lọt sàng xuống nia”, còn có thể chấp nhận được.

Nay Vinacomin khai thác tài nguyên khoáng sản để xuất khẩu lại đòi giảm thuế xuất khẩu là “lọt sang xuống đất” chỉ có người bán (Vinacomin) và người mua (khách hàng nước ngoài) được hưởng lợi.

Trong cơ chế và chính sách quản lý tài nguyên khoáng sản như của Việt Nam hiện nay, thuế suất của thuế xuất khẩu tối thiểu với alumina phải là 40%, than phải là 25%.

Không thể ép các DN trong nước mua than giá cao

PV:- Theo số liệu công bố giữa năm 2011 của Vinacomin, năm 2015 tập đoàn này có thể sản xuất được 55 - 60 triệu tấn than, lượng than thiếu cần phải nhập khẩu khoảng 6 triệu tấn, năm 2016 thiếu 25 triệu tấn. Năm 2020, sản xuất trong nước dự kiến đạt 67 - 72 triệu tấn và cần phải nhập khẩu để bù đắp lên tới 66 triệu tấn. Còn theo số liệu mới nhất tại hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2012 của Vinacomin, con số phải nhập khẩu từ năm 2015 là 10 triệu tấn.

Tại sao lại có sự lạ đời như vậy, trong khi nguồn tài nguyên khoáng sản đang bị cạn kiệt dần, trong nước phải nhập khẩu hàng triệu tấn thì Vinacomin cũng vẫn xuất ra thế giới với trữ lượng không kém? Những con số này nói lên điều gì, thưa ông?

TS Nguyễn Thành Sơn:- “Sự lạ đời” đó nói lên cái điều không ai muốn nói là chúng ta không có tầm nhìn chiến lược nhưng lại có các “qui hoạch” được vẽ ra với tư duy và phương pháp luận rất sai lầm.

Trữ lượng của bể than Quảng Ninh hiện nay chỉ còn khoảng gần 1,8 tỉ tấn, với tốc độ khai thác và thăm dò như hiện nay thì chỉ khoảng 30 năm nữa là ngành than ở Quảng Ninh đóng cửa. Trong khi đó, bể than đồng bằng sông Hồng dù có tiềm năng rất lớn nhưng rất khó khai thác.

Ở Quảng Ninh, các mỏ lộ thiên đều đạt tới mức công suất tối đa rồi. Có những mỏ như mỏ than Cọc Sáu từ năm 2010 đã phải hạ moong ở mức -90m và có kế hoạch tiến tới xuống mức -375m vào năm 2015. Mỏ Cao Sơn cũng vậy.

Nếu nói về độ sâu thì các mỏ lộ thiên này đã là sâu nhất thế giới, và tính về hệ số bốc đất thì cũng cao nhất thế giới, thế giới không ai khai thác như vậy nữa! Còn đối với mỏ hầm lò thì, chủ yếu khai thác từ -150m trở lên, và đang xây dựng một số mỏ -300m, nhưng cũng chỉ có than từ mức -500m trở lên thôi. Càng xuống sâu, vỉa than càng không có than.

Về thị trường: trong khi các nhà máy nhiệt điện và xi măng trong nước sẽ là những khách hàng chủ yếu và lâu dài của ngành than nhưng Vinacomin lại coi xuất khẩu là thị trường “tiêu điểm”. Gần 100% than xuất khẩu vừa qua có thể dùng để phát điện và sản xuất xi măng, đây là những loại than dự kiến sẽ phải nhập khẩu trong tương lai gần.

Vinacomin hết ruộng cày!

PV:- Cho rằng giá than bán cho điện thấp làm cho tài chính ngành than “đuối sức”, Vinacomin đưa quan điểm, giá than cho điện được điều chỉnh và chính sách thuế ổn định ở mức hợp lý, nếu không kéo theo hàng nghìn công nhân không công ăn việc làm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành kinh tế.

Ông có cho rằng, Vinacomin thật sự vì lợi ích nền kinh tế, vì người lao động hay thực tế chỉ là lợi ích nhóm?

TS Nguyễn Thành Sơn:- Tôi xin nhắc lại, nếu tính qui đổi ra nhiệt năng, giá cấp than cho điện ở VN hiện nay gần như cao nhất thế giới. Tôi chưa tìm ra quốc gia nào trên thế giới có than xuất khẩu mà lại bán than cho phát điện trong nước cao như ở Việt Nam.

Để tài chính ngành than không “đuối sức”, cách duy nhất là giảm chi phí sản xuất than và không sử dụng tài chính của ngành than để đầu tư vào các lĩnh vực khác. Việc gì liên quan đến thuế- nguồn thu chủ yếu của cả quốc gia thực chất chỉ vì lợi ích nhóm chứ không phải vì nền kinh tế. Còn để không ảnh hưởng đến ngành kinh tế hay vì lợi ích lâu dài, Vinacomin phải phát triển chiều sâu chứ không phải phát triển chiều rộng.

Cái gọi là “công ăn việc làm” hiện nay cũng phải xét cho kỹ. Tỷ lệ thợ lò hay số lao động trực tiếp làm ra than hiện chỉ chiếm 50%. Gánh nặng về “công ăn việc làm” hiện nay là ở chỗ số lao động gián tiếp (ở các khâu phụ trợ, “ăn theo” và nhân viên quản lý) quá cao.

Số lao động này có thể và cần phải giảm tới 30% để nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành than. Nếu thực chất vì người lao động thì phải phát triển bền vững, đầu tư theo chiều sâu, nâng cao giá trị sử dụng và chất lượng của hòn than.

PV:- Trong khi các nước trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc tìm mọi cách “bảo toàn” tài nguyên khoáng sản trong nước và tìm kiếm, khai thác nguồn nguyên liệu thô ở nước ngoài để đảm bảo nguồn cung cho sản xuất trong nước.

Còn Việt Nam lại đi ngược xu hướng này, thi nhau khai thác tài nguyên để bán ra nước ngoài với giá rẻ rồi lại nhập về chính loại than mà chúng ta đã và đang "tích cực" xuất khẩu với giá cao. Ông có bình luận gì trước sự kiện này?

Việc khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam so với các nước trên thế giới như thế nào, thế nào. Hệ quả nhìn thấy trong tương lai là gì, thưa ông?

TS Nguyễn Thành Sơn:-Mỗi nước có một chính sách riêng, ví dụ như Nga họ đưa cả dầu khí cấp cho Đông Âu làm thành con bài chính trị, nhưng đó là với các nước rất giàu về tài nguyên khoáng sản. Còn VN là nước rất nghèo về tài nguyên khoáng sản (kể cả về dầu, khí, than, titan, bô xit) chúng ta phải có chính sách phù hợp với cái “nghèo” của mình.

Ở đây có điều bất cập từ chính sách, quy hoạch. Tư duy quy hoạch và phương pháp quy hoạch không đúng đã và đang dẫn đến qui hoạch thường xuyên “bị hỏng”. Trong lĩnh vực khai khoáng nói chung, chúng ta đã rất sai lầm trong quản lý vĩ mô, và trong qui hoạch phát triển: đáng lẽ phải tạo ra “cầu” thì mới tạo ra “cung”, chứ không phải tạo ra “cung” rồi mới tìm “cầu”. Tìm không ra “cầu”, dẫn đến thừa “cung” nên lại đòi xuất khẩu.

Ngoài ra, chúng ta có một nhầm lẫn, nhầm hướng vì chúng ta là nước chậm phát triển nên chúng ta sốt ruột muốn đẩy nhanh GDP. Mà từ trước tới nay, để tăng GDP cách nhanh nhất, dễ làm nhất là khai thác khoáng sản và xuất khẩu. Nhưng đó cũng là cách làm nguy hiểm nhất.

Hệ quả có thể nhìn thấy trong tương lai là VN sẽ bị lặp lại “lời nguyền của tài nguyên khoáng sản” (dựa vào tài nguyên xuất khẩu để phát triển) hay còn gọi là “căn bệnh Hà Lan” được cả thế giới nhắc đến từ năm 1977. Bài học thất bại của Hà Lan là quá xa đà vào khai thác khí thiên nhiên ngoài khơi để xuất khẩu, không tập trung vào việc thúc đẩy, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn có hàm lượng khoa học cao (như điện tử- Hà Lan đã từng dẫn đầu thế giới về công nghiệp điện tử, nhưng đến nay đã bị nhiều nước khác vượt mặt).

PV:- Kịch bản này đã được các nhà khoa học cảnh báo với khai thác boxit của Vinamcomin khi các chuyên gia kinh tế đã chỉ ra, Vinacomin đã được ưu ái quá mức khi hưởng mức thuế suất 0% đối với xuất khẩu alumin. Ông có thấy thế không?

TS Nguyễn Thành Sơn:- Đã đâm lao phải theo lao. Để duy trì và tồn tại thì phải giảm thuế suất, tăng giá bán. Tuy nhiên về mặt luật pháp là không thỏa đáng. Vì tài nguyên khoáng sản được hiến pháp qui định là “sở hữu toàn dân”, nếu giao tài nguyên khoáng sản cho nhóm doanh nghiệp khai thác để xuất khẩu nhưng rồi lại không thu về được cái gì thì đó là vi hiến, kịch bản với bô-xit cũng vậy.

PV:- Theo ông, để vấn đề khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản Việt Nam cần phải làm gì?

TS Nguyễn Thành Sơn: -Trước hết, phải đánh giá lại cho chính xác xem chúng ta có cái gì. VN không có nhiều khoáng sản như nhiều người nói. Khoáng sản VN như “hàng xén”, thứ gì cũng có nhưng rất manh mún. Ví dụ, đất hiếm chúng ta cũng có, nhưng lại có những loại mà thế giới không cần. Titan cũng phải tính lại, có những cái cả thế giới đổ đi thì mình cũng đưa vào tính nên cứ nghĩ mình giàu. Nhiều khi người ta cứ nói là VN đứng thứ nọ thứ kia về một loại khoáng sản nào đó cũng chỉ với mục đích để thuyết phục Chính phủ cho được xuất khẩu, vì lợi ích nhóm.

Để nâng cao hiệu quả của tài nguyên khoáng sản, chúng ta phải có chính sách sử dụng tài nguyên khoáng sản cho phù hợp. Chỉ nên khai thác khoáng sản nếu trong nước có nhu cầu thực sự. Còn nếu trong nước chưa có nhu cầu thì nên nhớ rằng tài nguyên khoáng sản càng để lâu càng có giá.

Thứ ba, cần nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên khoáng sản. Hiệu suất sử dụng tài nguyên khoáng sản hiện nay của VN rất thấp. Ví dụ, trên thế giới 1 cân than người ta làm ra được 3-4kWh điện, còn VN chỉ làm ra được khoảng 2kWhđiện.

Xin cảm ơn ông về cuộc phỏng vấn thú vị này.

Hiếu Lam

(Báo Đất Việt)

June 27, 2013

Sự khác biệt giữa định lượng và định tính; điểm mạnh và hạn chế của định lượng

(Nguồn: nhanhoc07.blogspot.com)
I/ Sự khác biệt giữa nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính.
Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp định lượng và định tính có vai trò rất lớn đối với đề tài nghiên cứu, hai phương pháp này sẽ giúp nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu một cách chính xác và nhanh chóng tuy nhiên hai phương pháp này lại trái ngược nhau về cách thức và phương pháp hoạt động.
1/ Về định nghĩa:
Đối với nghiên cứu định tính thì chủ yếu thu thập dữ liệu bằng chữ và là phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm của nhóm người từ quan điểm của nhà nhân học.
Còn với nghiên cứu định lượng thì chủ yếu thu thập dữ liệu bằng số và giải quyết quan hệ trong lý thuyết và nghiên cứu theo quan điểm diễn dịch.
2/ Về việc sử dụng lý thuyết:
Trong nghiên cứu định tính nhà nghiên cứu sử dụng theo hình thức quy nạp, tạo ra lý thuyết, phương pháp nghiên cứu định tính còn sử dụng quan điểm diển giải, không chứng minh chỉ có giải thích và dùng thuyết kiến tạo trong nghiên cứu, có nghĩa là nhà nghiên cứu dựa vào các lý thuyết để xây dựng cho mình một hướng nghiên cứu phù hợp với điều kiện.
Còn trong nghiên cứu định lượng chủ yếu là kiểm dịch lý thuyết, sử dụng mô hình Khoa học tự nhiên thực chứng luận, phương pháp NCĐL có thể chứng minh được trong thực tế và theo chủ nghĩa khách quan, do là phương pháp chủ yếu sử dụng con số và tính khách quan cao nên phương pháp định lượng có độ trung thực cao.
3/ Về cách thực thực hiện:
Nghiên cứu định tính là một trong những nghiên cứu đòi hỏi ở nhà nghiên cứu khả năng quan sát và chọn mẫu cho phù hợp vì đây là giai đoạn đầu để hình thành nên đề tài, phương pháo nghiên cứu định tính chủ yếu sử dụng các biện pháp mang tính chủ quan như :
a/ Phỏng vấn sâu :
- phỏng vấn không cấu trúc.
- phỏng vấn bán cấu trúc.
- phỏng vấn cấu trúc hoặc hệ thống.
b/ Thảo luận nhóm:
- thảo luận tập trung.
- thảo luận không chính thức.
c/ Quan sát tham dự:
Đối với nghiên định lượng nhà nghiên cứu phải:
- Nghiên cứu thực nghiệm thông qua các biến.
- nghiên cứu đồng đại chéo có nghĩa là thiết kế n/c trong đó các dữ liệu được thu thập trong cùng một thời điểm.
- vd : nghiên cứu việc học của con gái ở thành thị và nông thôn.
- Nghiên cứu lịch đại thì dữ liệu thu thập theo thời gian trong đó các dữ liệu được so sánh theo thời gian.
- Nghiên cứu trường hợp là thiết kế nghiên cứu tập trung vào một trường hợp cụ thể.
- Nghiên cứu so sánh là thiết kế n/c trong cùng một thời điểm hay qua nhiều thời điểm.
4/ Cách chọn mẫu:
§ Trong nghiên cứu định tính:
- chọn mẫu xác xuất :
- mẫu xác xuất ngẫu nhiên.
- mẫu xác xuất chùm
- mẫu hệ thống.
- mẫu phân tầng.
- mẫu cụm.
- chọn mẫu phi xác xuất.
§ Trong nghiên cứu định lượng:
- theo thứ tự.
- câu hỏi đóng – mở.
- câu hỏi được soạn sẵn.
- câu hỏi ngắn ngọn, xúc tích.
- câu hỏi không gây tranh luận.
5/ cách lập bảng hỏi.
a/ Trong nghiên cứu định tính
- không theo thứ tự.
- câu hỏi mở.
- câu hỏi dài.
- câu hỏi gây tranh luận.
b/ Đối với nghiên cứu định lượng:
- theo thứ tự.
- câu hỏi đóng – mở.
- câu hỏi được soạn sẵn.
- câu hỏi ngắn ngọn, xúc tích.
- câu hỏi không gây tranh luận.


II/ ĐIỂM MẠNH VÀ HẠN CHẾ CỦA PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG.
MẠI DÂM Ở VIỆT NAM: CÁC TÁC ĐỘNG TỚI DỰ PHÒNG HIV/AIDS?
Tác giả: Vũ Ngọc Bảo

TÓM TẮT:
Bài viết nghiên cứu tập trung tìm hiểu các yếu tố hoàn cảnh văn hóa- xã hội chi phối việc những người mại dâm nữ (NMDN) và khách hàng của họ thực hiện hành vi tình dục có nguy cơ. Các phát hiện thu được từ một nghiên cứu Nhân học tiến hành ở tỉnh Cần Thơ thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả điều tra cho thấy nguyên nhân chủ yếu khiến NMDN thực hiện hành vi quan hệ tình dục không an toàn- tình dục không dung bao cao su là nỗi lo sợ bị bắt giữ trong thời gian diễn ra chiến dịch phòng chống “tệ nạn xã hội”. Vì mại dâm có tính di biến động và trá hình, NMDN gặp khó khăn khi tiếp cận và sử dụng bao cao su.. Khách hang nam giới thường là người ra quyết định về việc dung bao cao su trong quan hệ tình dục. NMDN không có khả năng kinh tế và khả năng thương thuyết để yêu cầu một khách hang tiềm năng sử dụng bao cao su, trong khi đó, khách hang thường dựa theo sở thích cảm tính và các niềm tin cá nhân và khoái cảm tình dục và tình dục “an toàn” đề quyết định dùng hay không dùng bao cao su. Nghiên cứu gợi ý cần tăng cường quảng bá rộng rãi cách tiếp cận theo hướng giảm thiểu nguy cơ và can thiệp dành cho nam giới qua các chương trình thay đổi hành vi đối với NMDN và khách hàng của họ.
ƯU ĐIỂM CỦA NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH QUA BÀI NGHIÊN CỨU.
1. Xem xét vấn đề bằng nhãn quan của đối tượng nghiên cứu:
Bằng các phương pháp phỏng vấn sâu và quan sát, nhà nghiên cứu đã phát hiện ra các yếu tố văn hóa- xã hội tác động tới NMDN và khách hàng của họ sử dụng bao cao su.Ở đây, nhà nghiên cứ đóng vai trò là người quan sát và ghi lại những thong tin mà đối tượng cung cấp chứ hoàn toàn không can thiệp vào các dữ liệu của bài nghiên cứu bằng cái nhìn chủ quan của mình.
2. Miêu tả nhấn mạnh đến bối cảnh.
Các nhà nghiên cứu định tính thường cung cấp các chi tiết miêu tả nhiều hơn các nhà nghiên cứu định lượng vì vai trò của việc hiểu bối cảnh là rất quan trọng để có thể hiểu được các hành vi xã hội. Trong bài nghiên cứu, hoạt động mại dâm ở Việt Nam tồn tại trong bối cảnh chính sách và các thiệt chế pháp luật nhằm xóa bỏ mại dâm. Mại dâm là bất hợp pháp và là tệ nạn xã hội, hủy hoại thuần phong mỹ tục của quốc gia, ảnh hưởng tới đời sống văn hóa- xã hội, gây ra bệnh AIDS và phải được loại trừ. Ngoài ra, việc sử dụng bao cao su hay không cũng bị chi phối trong bối cảnh văn hóa truyền thống, nơi mà người đàn ông là người thường đưa ra quyết định còn phụ nữ phải thực hiện theo.Việc đưa ra được một bối cảnh cụ thể trong nghiên cứu có thể cugn cấp them bằng chứng cho việc vận động thay đổi chính sách và chương trình hỗ trợ nhằm giảm thiểu nguy cơ và thay đổi hành vi để dự phòng HIV/AIDS cho MDN và khách hang của họ.
3. Nhấn mạnh đến quá trình:
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành các quan sát tổng thể và gặp gỡ trao đổi không chính thức với các đối tượng khác nhau ở 10 “điểm nóng” trong thời gian hơn 1 tháng. Bằng cách thâm nhập vào bối cảnh xã hội trong một thời gian dài, các nhà nghiên cứu có thể lưu ý đến yếu tố thời gian ảnh hưởng tới sự kiện như thế nào.
4. Tính linh hoạt và không có tính cấu trúc:
Bằng các phương pháp tham dự và phỏng vấn, nhà nghiên cứu có thể linh hoạt trong việc xử lí các dữ liệu mà cụ thể ở đây là những lí do khiến cho NMDN và khách hàng của họ có hay không sử dụng bao cao su. Nhà nghiên cứu không hề phải phụ thuộc vào bất cứ một công thức nào sẵn có để xác lập hệ thống lý thuyết cho đề tài nghiên cứu mà chỉ phụ thuộc vào các thông tin mà đối tượng cung cấp.
5. Các khái niệm và lí thuyết dựa trên dữ liệu:
Đối với các nhà nghiên cứu định tính, khái niệm và lí thuyết thường được quy nạp từ dữ liệu thu thập được. Các phát hiện trong nghiên cứu này cung cấp những bằng chứng thực tế củng cố việc nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố hoàn cảnh đối với việc chấp thuận các hành vi bảo vệ cho dự phòng HIV. Đồng thời, thông qua những dữ liệu thu thập được, nhà nghiên cứu có thể đưa ra các chứng cứ quan trọng nhằm góp phần vào việc phát triển các chính sách nhấn mạnh các chương trình can thiệp giảm tác hại được đưa ra trong chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020.
1/Có quá nhiều tính chủ quan:
Trong bài nghiên cứu, nhà nghiên cứu bắt đầu bằng một phương thức tương đối mở là phỏng vấn sâu với 10 NMDN và 10 khách làng chơi. Trong đó tập trung vào đối tượng NMDN giá thấp với giả thuyết ban đầu là họ có thể có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn những đối tượng NMDN giá cao hơn vì họ hành nghề trong những điều kiện khó khăn và không có khả năng thương thuyết với khách hàng. Do dựa vào các quan điểm thường là không có hệ thống nên trong quá trình xử lí dữ liệu sẽ nghiêng về tính chủ quan của đối tượng nghiên cứu.
2. Vấn đề khái quát hóa bị hạn chế:
Phạm vi của bài nghiên cứu chỉ hạn chế ở tỉnh Cần Thơ nên những trường hợp tại đây không thể đại diện cho một bộ phận lớn các trường hợp khác ở những nơi mà hoàn cảnh xã hội khác đi.
4. Thiếu sự minh bạch:
Việc các đối tượng tham gia trả lời phỏng vấn được giấu tên vì tính chất nhạy cảm của vấn đề và nhà nghiên cứu cũng không thể trình bày quá trình chọn lựa người quan sát hay đối tượng phỏng vấn là nguyên tắc nghề nghiệp của các nhà nghiên cứu nên ta không xét vấn đề này . Tuy nhiên , sự thiếu sự minh bạch ở đây thể hiện qua cách thức chọn mẫu .Với cách thức chọn mẫu của phương pháp nghiên cứu định tính thì mẫu ban đầu ( hay mẫu mầm ) là mẫu mà nhà nghiên cứu cho rằng có tính chất phù hợp với vấn đề thông tin cần khai thác, như vậy mang tính chủ quan của tác giả . Với phương pháp khai thác thông tin từ việc tìm thêm mẫu nghiên cứu : khi đã có mối quan hệ thân quen với một đối tượng là gái mại dâm hay khách làng chơi có thể nhờ mối quan hệ đó để tìm thêm những mẫu nghiên cứu khác . Tuy nhiên , phương pháp này không thật sự minh bạch , khó có ai có thể kiểm chứng những thông tin thu thập được , từ đó dẫn đến việc xử lí thông tin cũng thiếu sự minh bạch .

Đối với bất kì một phương pháo nào cũng đều có điểm mạnh và hạn chế của nó, không có một phương pháo nào hoàn hảo chính vì vậy mà khi làm một đề tài nghiên cứu nhà nghiên cứu thường sử dụng rất nhiều phương pháp trong việc thu thập và sử lí thông tin, thường thì các phương pháp là khác nhau nhưng nó lại hổ trợ cho nhau rất nhiều.
Với phương pháp nghiên cứu định lượng cũng vậy nó cũng có điểm mạnh và hạn chế riêng của nó cụ thể như trong cuộc điều trà KAP.
Nghiên cứu KAP cho phép suy luận thống kê từ kết quả thu được ở các mẫu tương đối nhỏ ra quần thể lớn hơn; nó cũng cho phép đo lường và đánh giá mối liên quan giữa những biến số; tiến hành điều tra khá dễ và triển khai khá nhanh chóng; và kết quả thu được từ các cuộc điều tra tốt có thể sử dụng để so sánh theo thời gian hoặc giữa các vùng. Tuy nhiên KAP có một số nhược nhược điểm và cần được sử dụng một cách thận trọng. Đáng lưu ý nhất là những sai số không do chọn mẫu, ví dụ người được hỏi trả lời không đúng các câu hỏi vì không nhớ hoặc do hiểu sai hoặc cố tình nói dối. Hai vấn đề nghiêm trọng nhất là:
- Sự phiên dịch lại về mặt văn hóa: xảy ra khi đối tượng phỏng vấn không hiểu câu hỏi đặt ra như ý định của nhà nghiên cứu mà lại hiểu khác đi và trả lời theo cách hiểu của họ.
- Những sai số ngữ cảnh là những yếu tố liên quan đến bản thân cuộc phỏng vấn. phương pháp nghiên cứu định lượng giả định rằng hành vi và thái độ của con người không thay đổi theo ngữ cảnh. Tuy nhiên, câu trả lời của đối tượng có thể thay đổi phụ thuộc vào các ngữ cảnh khác nhau.
Nghiên cứu định tính cho phép các nghiên cứu viên hạn chế các sai số ngữ cảnh bằng cách sử dụng các kỹ thuật phỏng vấn và tạo ra một môi trường phỏng vấn mà trong đó đối tượng cảm thấy thoải mái nhất.
Các phương pháp này thu thập thông tin khác nhau đem lại thông tin khác nhau. Vì vậy trước khi quyết định sử dụng phương pháo nào cần phải xác định loại thông tin nào cần thiết nhất cho mục đích nghiên cứu Các phương pháp NCĐT và NCĐL có thể kết hợp để bổ sung lẫn cho nhau.
Ví dụ:
- NCĐT có thể hỗ trợ cho NCĐL bằng cách xác định các chủ đề phù hợp với phương pháo điều tra.
- NCĐL có thể hỗ trợ cho NCĐT bằng cách khái quát hóa các phát hiện ra một mẫu lớn hơn hay nhận biết các nhóm cần nghiên cứu sâu
- NCĐT có thể giúp giải thích các mối quan hệ giữa các biến số được phát hiện trong các NCĐL.
 Trong một nghiên cứu khác về phương pháp nghiên cứu định lượng trong nghiên cứu thị trường của tác giả Trần Thị Thu Phượng thì tác giả cho rằng Nghiên cứu thị trường có thể được chia thành hai nhóm: các phương pháp phân tích định tính đối lại với định lượng.
Trong những năm 1970-80, các phương pháp định tính chiếm ưu thế. Chúng dựa vào tâm lý học nhằm khám phá, tìm hiểu sở thích của người tiêu dùng, cách ứng xử hay hành vi của họ. Nhờ đó, doanh nghiệp có được thông tin tốt hơn trong việc lựa chọn các chiến lược phân khúc thị trường (segmentation), định giá (pricing), khuyến mãi (promotion), marketing mix, và xây dựng thương hiệu (brand equity). Nhưng gần đây, kết quả nghiên cứu của các phương pháp định tính này không mấy khả quan. Như Peter Rossi (University of Chicago) và Marco Vriens (Microsoft Corp) đã chỉ ra: “tỷ lệ trả lời [các câu hỏi phỏng vấn] thấp tới mức đáng ngại. Câu trả lời cho các bảng hỏi dài của nghiên cứu thị trường thường bị quá thiên lệch, và “những “nhà chuyên nghiệp” giờ đây cũng hành ghề trong focus groups và những phương pháp nghiên cứu đinh tính khác.
Dữ liệu thu thập được bởi các nhà nghiên cứu thị trường ngày càng bị khách hàng của họ đặt thành vấn đề.” Có lẽ những lời nhận định trên đây lý giải phần nào cho một vài kinh nghiệm không mấy tốt đẹp mà các công ty Việt nam đã gặp phải. Chẳng hạn như những nghiên cứu thị trường cho việc định giá máy laptop lắp ráp ở TP HCM. Sự quá tốn kém và thiếu tin cậy của những phân tích này khiến cho một số nhà kinh doanh đầy kinh nghiệm bị nản lòng. Những biểu đồ ngay ngắn, nhiều mầu sắc, với những lời nhận xét chung chung không giúp họ vạch ra được một chiến lược kinh doanh cụ thể, có hiệu quả.
Một dòng nghiên cứu thị trường khác là các phương pháp định lượng phổ biến mạnh nhất ở Mỹ. Dòng nghiên cứu này bắt đầu vào khoảng cuối thập kỷ 1970, nhờ sự tiến bộ của các công cụ đo lường kinh tế (econometrics), mà nó cho phép phân tích và đánh giá tác động tâm lý của người tiêu dùng vào hành vi chi tiêu của họ.
Để hình dung, ta hãy xét một ví dụ cụ thể. Ai trong chúng ta đôi khi cũng phải ra một quyết địnhlớn như lập gia đình, xây nhà, hoặc mua xe ô tô. Khi đó, trong đầu bạn diễn ra những cân nhắc thiệt hơn của việc làm một quyết định lớn như vậy. Nếu ích lợi ròng của việc mua sắm đó là dương, thì bạn quyết định mua, và nếu là âm, thì bạn không mua.
Độ lớn của ích lợi ròng này phụ thuộc vào một loạt các yếu tố, như nghề nghiệp, thu nhập, tình trạng hôn nhân, và sở thích, vân vân. Không ai có thể “đọc” được những phân tích thiệt hơn như vậy trong đầu bạn. Nhưng rõ ràng là các đại lý bán nhà đất hoặc xe hơi có thể quan sát được hành động của bạn. Tức là việc bạn quyết định mua hay không.
Quan trọng hơn, các quyết định đó bộc lộ ý nguyện tiềm ẩn trong đầu bạn. Rằng nhu cầu mua sắm đó đã đủ chín muồi chưa để đi đến quyết định mua. Dựa vào quan hệ như vậy, đại lý bán xe hơi có thể dự đoán đuợc khả năng bạn sẽ mua xe (tức là mức độ chín muồi của quyết định như vậy), nếu như biết được các dữ kiện về thu nhập, tình trạng gia đình, và sở thích về sở hữu xe hơi của bạn.
(Yếu tố cuối cùng có thể được đo lường được, nhờ chấm điểm từ 1, 2,…, đến 5 chẳng hạn, thể hiện mức độ ưa thích tăng dần). Nhờ vào những phân tích định lượng này, các nhà đại lý nhà đất hay bán xe hơi có thể xác định được nhu cầu tiềm tàng của lớp người tiêu dùng trên thị trường ngách của họ.
Ví dụ nêu trên bao hàm bốn điểm quan trọng đáng được nhấn mạnh lại. Thứ nhất, phân tích định lượng kiểu như vậy tập trung vào việc đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế, tâm lý, và xã hội của các cá nhân đến hành vi tiêu dùng của họ. Tương tự, phương pháp đó cũng có thể dùng để đo lường tác động của các chiến lược về giá cả, quảng cáo, khuyến mãi, và dịch vụ hậu bán hàng của một công ty lên doanh số của nó. Những mối quan hệ tương tác đó được đúc kết lại trong các lý thuyết kinh tế và kinh doanh, giảng dạy tại các công ty lớn hay trường quản trị kinh doanh ở Mỹ, Tây Âu, hay Nhật Bản. Nó là một sự trừu tượng hoá thực tiễn thành lý luận. Nó chỉ ra đâu là các yếu tố thiết yếu nhất tác động đến hành vi của các tác nhân thị trường; và các tác động đó diễn ra như thế nào. Chẳng hạn, ta tin rằng giá cả càng mang tính cạnh tranh, thì số lượng bán ra của công ty càng nhiều. Phí tổn quảng cáo càng lớn, thì người tiêu dùng càng tin vào chất lượng sản phẩm của công ty. Bởi vì họ lý giải rằng, nếu chất lượng sản phẩm không thật sự tốt, thì công ty lấy đâu ra đủ doanh số bán để bù đắp cho chi phí quảng cáo dài hạn.
Thứ hai, dựa trên cơ sở lý thuyết về các mối quan hệ kinh tế nêu trên, người làm nghiên Cứu thị trường có thể lập ra những bảng hỏi ngắn gọn, logic, có độ “phân giải” cao, hàm ý rất rõ ràng, “sắc nét”. Ở đây, ta thấy có sự giao lưu giữa phương pháp định tính và định Lượng trong nghiên cứu thị trường. Cả hai phương pháp đều dựa trên việc điều tra để lấy thông tin về người tiêu dùng hay nhà phân phối. Nhưng bảng hỏi của phương pháp định lượng thường ngắn hơn, cụ thể hơn, và chỉ tập trung vào các yếu tố chứa đựng lượng thông tin lớn nhất cho việc lý giải hành vi của đối tượng được nghiên cứu. Sự lựa chọn các yếu tố mang thông tin đó không lệ thuộc nhiều vào khả năng hiểu biết về tâm lý học của người lập bảng hỏi. Nó được chỉ dẫn bởi lý thuyết kinh tế, đúc kết từ các tương tác trong kinh doanh của hàng triệu tác nhân trong bối cảnh tương tự với đối tượng được nghiên cứu. Trong kinh tế học lý thuyết này được gọi là lý thuyết trò chơi.
Thứ ba, dựa vào dữ liệu thu thập được, các phương pháp đo lường kinh tế cho phép đánh
giá các quan hệ kinh tế, với độ tin cậy xác định về mặt thống kê. Những đánh giá đó có thể được sử dụng cho phân tích và dự báo. Không ngạc nhiên, những kỹ thuật đo lường này cũng được sử dụng từ phân tích và dự báo thời tiết, cho đến việc xác định quỹ đạo của tên lửa bắn tới các hành tinh. Nếu nhìn một cách thuần tuý định tính, chúng ta có thể mô tả với một danh sách rất dài và phức tạp về các đặc trưng của một cơn bão. Nhưng dựa trên đo lường kinh tế, bằng cách chỉ tập trung vào những yếu tố khí tượng thủy văn thiết yếu nhất, ta có thể dự báo khá chính xác đường đi và vận tốc của cơn băo, mà không một phân tích định tính nào có thể hy vọng làm được như vậy.
Cuối cùng, kết quả phân tích và dự báo định lượng được đối chiếu lại với cơ sở lý luận cho việc lập mô hình phân tích và dự báo. Sự phù hợp giữa lý luận và thực tiễn sẽ cho phép cho ra những quyết định kinh doanh rất có lợi cho công ty, như là hệ quả trực tiếp của việc có được những thông tin đáng tin cậy về thị trường. Một phân tích thực nghiệm không phù hợp với lý thuyết thường dẫn tới việc kiểm định lại lý thuyết hay cách đặt vấn đề, mà dựa vào đó để lập mô hình phân tích. Điều đó dẫn đến vòng lặp: lý thuyết định hướng việc nghiên cứu thực tiễn; và kết quả phân tích thực tiễn thúc đẩy sự phát triển của lý luận. Có lẽ chính nhờ vòng lặp này, mà các quan điểm kinh tế thực chứng hay “thực dụng” kiểu Mỹ chiếm ưu thế hơn hẳn so với trường phái kinh viện ở châu Âu, nơi cho đến giờ vẫn tiên phong về vẻ đẹp thuần tuý của lý thuyết với tính trừu tượng của nó.
Như vậy với hai ví dụ này chúng ta có thể thấy rằng phương pháp định lượng có nhiều điểm mạnh và hạn chế mà chúng ta cân lưu ý tới.
———–&&———–

June 26, 2013

Ai tạo ra các đại gia đỏ ở Nga?

Tác Giả : Ngô Nhân Dụng
Kinh nghiệm cải tổ kinh tế ở các nước cộng sản cũ cho thấy ngay các chương trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, ở Việt Nam gọi là cổ phần hóa, cũng có thể bị các đảng viên cao cấp lợi dụng làm giàu bất công. Các lãnh tụ cộng sản ở nước ta chắc đã chăm chỉ học tập kinh nghiệm Liên Xô, ngày còn chế độ đó cũng như sau khi chế độ sụp đổ. 
Từ năm 1991 đến nay, Cộng Sản Việt Nam cố tình trì hoãn tiến trình thay đổi kinh tế cũng vì rút kinh nghiệm của nước Nga sau khi chế độ cộng sản tàn. Bài học chính mà họ đang thi hành là: Trì hoãn việc cải tổ càng lâu thì họ càng có lợi, trên con đường thu góp của cải. Nhưng ai cũng biết, người ta không thể nào trì hoãn được lịch sử mãi mãi, thế nào cũng có lúc phải bước đi thêm bước mới. Cho nên, đến lúc nào mà đảng Cộng Sản Việt Nam chuyển hướng, thi hành lại chương trình gọi là cổ phần hóa của họ, người dân cũng phải theo dõi kỹ để xem họ có tái diễn những trò biến của công thành tài sản tư như đã xảy ra ở nước Nga trong thời kỳ chuyển tiếp hay không.
Giai cấp “đại gia đỏ” nổi tiếng ở Nga đã thành hình qua chương trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Người ta thường hiểu lầm rằng ông Boris Yeltsin, tổng thống Nga lúc đó, chịu trách nhiệm về hiện tượng này, và cũng hiểu lầm rằng các chương trình tư nhân hóa đều có thể gây ra nạn tập trung tài sản vào một thiểu số tư nhân, là các đại gia đỏ. Sự thật không đơn giản như vậy. Sự thật là Boris Yeltsin đã bị giai cấp các đảng viên cộng sản nắm ưu quyền thúc đẩy và thao túng, lái cả chương trình tư nhân hóa sang một con đường mà chính họ có thể lợi dụng làm giàu cho chính họ và những tư nhân khôn ngoan biết cộng tác với họ. Cần phải rút kinh nghiệm những thất bại của Yeltsin, vì chính giai đoạn chuyển tiếp đó đã gây ra tình trạng nước Nga bị giai cấp các đại gia đỏ chiếm đoạt và thao túng.
Boris Yeltsin gây nên sự nghiệp trong lòng guồng máy cộng sản, leo lên đến vai trò một ủy viên trong Bộ Chính Trị. Kinh nghiệm chính trị cả đời ông là do guồng máy đó cung cấp, ông ta không biết và cũng không hiểu thế nào là thể chế tự do dân chủ, với những định chế ràng buộc lẫn nhau. Cho nên, khi lên đến đỉnh cao danh vọng sau khi dẹp tan được cuộc đảo chính năm 1991, ông vẫn hành động như một lãnh tụ cộng sản đích thực, do đó đã tự đưa mình vào một cái bẫy mà sau này ông cũng ân hận, thú nhận rằng mình đã bỏ lỡ mất cơ hội.
Vào năm 1991, nếu biết nắm lấy cơ hội thì Yeltsin đã phải giải tán Quốc Hội Nga và những cơ cấu do Quốc Hội đó dựng lên. Ông có thể đứng ra làm thủ lãnh một đảng chính trị, trong lúc phong trào Dân Chủ Nga, một tập hợp của nhiều nhóm có khuynh hướng tự do dân chủ sẵn sàng coi ông là người đứng đầu. Ông có thể tổ chức bầu cử, trong đó thế nào phe đảng của ông cũng chiếm đa số. Ông có thể soạn một Hiến Pháp mới theo mẫu các quốc gia dân chủ tự do đã hoạt động từ vài thế kỷ trước. Chế độ tự do dân chủ dựa trên các luật chơi, mà đảng chính trị đóng vai các cầu thủ. Mỗi đảng chính trị là tập hợp của những nhóm dân chúng có quyền lợi khác nhau, có khi xung đột với nhau. Các đảng chính trị phải đại diện cho các nhóm lợi ích mà họ tập hợp lại, dùng cơ chế bầu cử và tổ chức Quốc Hội làm nơi tranh đấu và thỏa hiệp với nhau. Không có các đảng chính trị thì không thể có sinh hoạt dân chủ.
Boris Yeltsin đã không thành lập đảng, không tổ chức bầu cử để có một Quốc Hội mới, viết bản Hiến Pháp mới. Vì bản chất ông vẫn là một ủy viên Bộ Chính Trị, không có chút kinh nghiệm nào về thể chế dân chủ. Một lãnh tụ cộng sản như ông tin tưởng rằng quyền hành nằm trong tay cá nhân người lãnh tụ. Với uy thế của ông lúc đó, mới được dân Nga bầu lên với số phiếu lớn vào Tháng Sáu năm 1991, mới dẹp tan được cuộc đảo chính vào Tháng Tám, đã dẹp Gorbachev ra bên lề sau khi tách nước Nga ra khỏi Liên Bang Xô Viết và xóa bỏ đảng cộng sản, Yeltsin tin là với uy thế đó ông có thể thi hành bất cứ chính sách hoặc chương trình nào cũng được. Yeltsin tự coi mình đứng trên các đảng phái chính trị, có thể nói là coi thường các đảng phái. Các nhóm tranh đấu cho dân chủ không thể tập hợp lại, trong khi các đảng viên cộng sản cao cấp và trung cấp vẫn còn giữ mối liên lạc mật thiết với nhau vì cùng chia sẻ các quyền lợi chính trị và kinh tế.
Cái bẫy giăng trên đầu Yeltsin, sẵn sàng chụp xuống, là nước Nga lúc đó vẫn còn phải sử dụng một bản Hiến Pháp thời cộng sản. Hơn nữa, bên cạnh ông còn có những định chế như Quốc Hội và Xô Viết Tối Cao, được bầu lên từ năm 1990, khi vẫn còn chế độ cộng sản. Cuộc bầu cử vào Tháng Ba năm 1989 vẫn theo Hiến Pháp thời cộng sản: Ðảng cử, dân bầu. Chỉ những người được đảng cộng sản hoặc các tổ chức phụ thuộc của họ mới được ứng cử. Quốc Hội đó lại bầu lên một Xô Viết tối cao, có quyền hành lớn nhất. Chính Yeltsin không được bầu vào Xô Viết Tối Cao này; cho đến khi một người tự ý rút lui để nhường chỗ, giữ thể diện cho ông. Ðến đầu năm 1990, Quốc Hội Nga mới bỏ phiếu xóa bỏ điều 6 trong Hiến Pháp, chấm dứt độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng trong cuộc bầu cử Quốc Hội nước Nga sau đó, vào Tháng Ba năm 1990, đại đa số các ứng cử viên vẫn là các đảng viên cộng sản. Chính cái Quốc Hội này tập trung giới “quý tộc đỏ,” thường gọi là monenclatura, bao gồm các đảng viên cao cấp và trung cấp, giám đốc các doanh nghiệp nhà nước, đủ mặt những người đang cầm đầu guồng máy cai trị cũng như kinh tế, và đang lo sẽ mất các quyền lợi đó.
Vì vậy, nền chính trị nước Nga diễn ra một cuộc tranh giành quyền hành giữa Yeltsin và Ruslan Khasbulatov, chủ tịch Xô Viết Tối Cao. Ðiều 107 trong bản Hiến Pháp năm 1977 trao cho Xô Viết Tối Cao quyền kiểm soát hành pháp và quyền thay đổi Hiến Pháp. Dựa trên bản Hiến Pháp thời cộng sản, Khasbulatov giải thích rằng Xô Viết Tối Cao nắm quyền lãnh đạo cao nhất trong khi Yeltsin nghĩ rằng mình là tổng thống do dân trực tiếp bầu lên mới nắm quyền! Lúc đầu Khasbulatov tìm cách cộng tác với Yeltsin. Chương trình cải tổ kinh tế của Gaidar được Quốc Hội Nga bỏ phiếu chấp thuận với tỷ số 876/16 vào Tháng Mười năm 1991. Một tháng sau, Quốc Hội trao toàn quyền cho Yeltsin được cai trị bằng sắc lệnh, để cải tổ kinh tế.
Sau khi đã dọ sức và thử thách Yeltsin trong mấy tháng cuối cùng năm 1991, Khasbulatov và các đồng chí quý tộc đỏ thấy họ có thể lấn dần ông tổng thống. Nhân danh Xô Viết Tối Cao, Khasbulatov ra lệnh cho các bộ và cơ quan chính phủ, cho thống đốc Ngân Hàng Trung Ương, và chính ông ký các sắc lệnh có giá trị như luật lệ. Sáu tháng sau khi đã ủng hộ chương trình cải tổ kinh tế của Gaidar, chính Quốc Hội Nga lại bỏ phiếu xóa bỏ chương trình đó, với tỷ lệ 632/231! Trong năm 1992 Khasbulatov đã ban hành 66 mệnh lệnh cho bộ máy nhà nước, rồi trong sáu tháng đầu năm 1993, ông ban ra 630 mệnh lệnh nữa.
Tất cả các mệnh lệnh đó phản ảnh quyền lợi của các cựu đảng viên cộng sản, thuộc giới quý tộc đỏ, và thường trái ngược với các chính sách của đám cố vấn thân cận của Yeltsin; những người có chủ trương cải tổ kinh tế nhanh chóng và toàn diện. Sau khi chương trình cải tổ của Gaidar bị xóa bỏ, Yeltsin phải nhượng bộ, thương thuyết với giới quý tộc đỏ trong Quốc Hội Nga để đưa ra những chính sách phù hợp với quyền lợi của họ; từ đó cả chương trình thay đổi kinh tế nước Nga là do nhóm này quyết định. Ảnh hưởng mạnh nhất, và hậu quả tai hại lâu dài nhất, là họ lái cả chương trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, để cho các vị quản đốc đương nắm quyền, các thân nhân và các mưu sĩ cố vấn của họ tha hồ chiếm đoạt các xí nghiệp quốc doanh, biến của công thành của riêng.
Chính Khasbulatov còn lo bảo vệ an ninh cá nhân của mình bằng cách tuyển mộ năm ngàn người vào đạo quân bảo vệ Quốc Hội!
Cuộc tranh chấp giữa Yeltsin và Khasbulatov không thể nào giải quyết được, cuối cùng chính Yeltsin phải quyết định “đảo chính,” đưa quân đến vây tòa nhà quốc hội và giải tán Quốc Hội. Ông soạn một bản Hiến Pháp mới vạch rõ giới hạn giữa quyền hành pháp và lập pháp, cố ý dành nhiều quyền hành cho ngôi vị tổng thống. Sau khi Yeltsin “truyền ngôi” cho Vladimir Putin, đến lượt Putin được hưởng những quyền hành rộng rãi, càng ngày càng độc tài hơn.
Vladimir Putin thực ra không xóa bỏ giai cấp đại gia đỏ đã thành hình qua chương trình tư nhân hóa dưới thời Yeltsin, mặc dù ông đã bỏ tù một số và lưu đày một số khác. Putin chỉ thay đổi các khuôn mặt cá nhân nằm trong đám đại gia đỏ. Những người tuân theo lệnh ông vẫn được sử dụng như cũ. Những người không chịu nghe lệnh ông thì bị chèn ép rồi đưa ra tòa, hoặc chạy trốn. Tài sản của đám người này được chuyển sang cho những tay chân của Putin. Chế độ cộng sản ở nước Nga đã biến thành một chế độ tư bản nhà nước, do một thiểu số các đại gia tay chân của một nhà độc tài nắm hầu hết quyền hành và lợi lộc. Ðây là một bài học cho các nước sẽ thay đổi từ độc tài sang dân chủ.

Buổi sáng của Thiền


Blog của Alan Phan

Buổi sáng của thiền

April 1, 2012

Ngay cả những ngày thất nghiệp, quanh quẩn suốt tuần với thì giờ rãnh rổi, những buổi sáng Chủ Nhật là những thời khắc tôi luôn trân trọng. Nằm nướng trên giường, không có một thời biều hay hẹn hò gì, tôi thư giãn lắng nghe tiếng chim hải âu hòa cùng tiếng sóng biển ngoài kia, ngửi mùi cà phê vọng hương từ bếp và nhìn người yêu đang say ngủ giữa đống chăn nệm gối. Tôi có thể im lặng cả giờ, tận hưởng không khí thiền với một đầu óc trống rỗng và một thân thể hồi sinh sau giấc ngủ dài. Thời sự thế giới, chiến trường kinh tế, thị phi thiên hạ, bức xức tuổi trẻ…dường như xa lắm, ngoài cả hành tinh. Trong không gian này, chỉ có một mình tôi, ôm ấp một niềm vui không tên thật an bình và ấm cúng.
Đôi khi, trong cái nặng nhọc của chuyến lữ hành qua ngày tháng, ta chỉ cần một nâng đỡ nhẹ nhàng của ai đó, như bài hát nào từ một ký ức đã gần quên…
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi (*)
Những buổi sáng Chủ Nhật lười biếng của tôi là giờ phút giúp mình hành hương qua sa mạc để tìm vùng đất hứa. Và bầy tỏ lòng biết ơn với định mệnh cùng thiên nhiên.
(*) Bài Ngậm Ngùi, thơ Huy Cận, nhạc Phạm Duy

Buổi chiều của mưa

June 23, 2013

Tôi không hiểu sao lúc này tôi lại bận rộn đến thế? Đây là mùa hè, bè bạn đối tác đã thi nhau đi nghỉ thường niên, blog thì ít người đọc hơn vì các bạn sinh viên cũng đã về quê, kinh doanh thì trì trệ mệt mỏi như nền kinh tế bao quanh…Nếu không có cây phượng đỏ thắm đầu đường, tôi chắc mình đã quên hè, quên hạ trắng, quên rừng, quên biển…
Ngày xưa khi nắng lên rực rỡ là tôi tìm cách bỏ đi thật xa môi trường đang sống để quay về với núi rừng biển cả. Tôi hay bay về khu đất ở Maui, ngay sát bờ cát đen mịn, nơi tôi có vài cabin gỗ cho thuê. Suốt ngày, đầu óc tôi chỉ quanh quẩn việc tìm hải sản nướng cho người yêu ăn tối hoặc cỡi ngựa đưa nàng dọc theo đường mòn về trại Hana Ranch của người bạn cách đó vài cây số. Tôi nghe không chán những câu chuyện vô nghĩa, tìm niềm vui qua tiếng cười từ trước bờ vai rung rung của nàng. 
Courtney đã bỏ đi lấy chồng, khu đất tôi cũng đã bán khi ông partner lăn ra chết, và 15 năm qua, tôi chưa về lại Maui. Có lẽ tôi không muốn ướt mi khi nhớ về những chiều mưa, hai đứa nghe gió hú bên ngoài, ấm cúng trong này bên chăn gối nệm. 
Chiều nay, bão rớt đâu và mưa giông cuốn lốc Phú Mỹ Hưng. Trên lầu cao, tôi nhìn mây xám xịt và gió muốn thổi tung các chậu cây cảnh ngoài sân thượng. Vợ thì nằm ngủ ngây thơ thanh bình như con mèo mềm mại bên khúc nhạc dương cầm cổ điển. Tôi đang suy nghĩ về một bài ghi chép dài những phân tích của G/S Carl Thayer khi ông ra điều trần ở Quốc Hội Mỹ về những định hướng mới của các nhà lãnh đạo xứ này. Cơn mưa và nụ cười trong mơ của vợ làm tan biến đi những tư duy rắc rối này. Tôi lại miên man hạnh phúc trong ký ức về Maui và trong hiện tại về góc nhỏ bình yên của gia đình.
Anh bạn John Wells rủ rê về việc sản xuất một cuốn phim tình (hơi đen tối) lấy Việt Nam hay một xứ nhiệt đới nào làm bối cảnh. Anh muốn nhờ tôi viết lại kịch bản và tìm thêm 6 triệu đô vốn cho đủ ngân sách. 
Nhưng chiều mưa hôm nay làm ướt át mọi kế hoạch. Tôi nhớ ra là mình cũng còn nợ Prentice Hall một cuốn sách về thị trường chứng khoán Trung Quốc và Thái Hà Books hai cuốn sách về Việt Nam. Bận rộn là vậy!!!
Alan Phan