June 8, 2013

0(83)


Tưởng rằng kinh tế Việt Nam đã đi vào đường băng “cất cánh” vào năm 2007 khi mức tăng trưởng kinh tế lên đến 8,48% - mức cao nhất trong vòng 10 năm trước đó. Thế nhưng tình hình thực tế những năm sau đó cho thấy điều hoàn toàn ngược lại. Kinh tế Việt Nam từ đó liên tục “ngụp lặn” trong các bất ổn vĩ mô với tình trạng lạm phát cao và tăng trưởng kinh tế chậm lại đến mức gần như đình trệ. Năm 2009, cũng như nhiều nước khác, để chống suy giảm kinh tế Chính phủ Việt Nam đã đưa ra gói kích thích kinh tế trị giá lên đến 8 tỷ USD, tương đương hơn 8% GDP trong khi đó quy mô lớn nhất là gói kích cầu của Mỹ khoảng 800 tỷ USD nhưng chỉ tương đương khoảng 6% GDP của Mỹ, gói kích cầu của Trung Quốc có quy mô 586 tỷ USD, tương đương 5,5% GDP; các nước trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia hay Thái Lan cũng đưa ra gói kích cầu khiêm tốn chỉ 2 tỷ và 3,3 tỷ USD.
Điều đáng nói là trong khi ngân sách của Chính phủ vốn đã thâm thủng lớn thì việc đưa ra gói kích cầu đầy tham vọng sẽ mang lại nhiều rủi ro cho nền kinh tế. Thâm hụt ngân sách năm 2009 của Việt Nam theo báo cáo của Chính phủ là 6,9% GDP nhưng theo ước tính của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) có thể lên đến hơn 8% GDP, thậm chí gần 9% GDP nếu tính cả các khoản thâm hụt ngoài ngân sách. Mặc dù được hỗ trợ

bởi gói kích cầu quy mô lớn nhưng tăng trưởng kinh tế năm 2009 cũng chỉ đạt 5,32%.
Tăng trưởng kinh tế thấp trong khi thâm hụt ngân sách lên đến đỉnh điểm đã làm cho tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP nhảy vọt từ mức khoảng 42,9% năm 2008 lên đến 51,16% năm 2009, tức đã vượt qua ngưỡng nợ công vốn được xem là an toàn trước đó là 50% GDP. Có vẻ mức nợ này chưa phải quá lớn đến mức đủ để cảnh báo các nhà chức trách khi vẫn luôn có những trấn an rằng nợ vẫn đang “trong tầm kiểm soát.” Điều đáng ngờ là ngưỡng nợ an toàn luôn được tịnh tiến lên trong khi thiếu những giải trình có trách nhiệm. Mặc dù vậy, có một điều mà người ta không thể phớt lờ là tỷ lệ nợ công đang tăng lên và tăng nhanh.
Thực trạng nợ công:
Từ sau cuộc khủng hoảng Đông Á 1997 – 1998, tỷ lệ chi tiêu của Chính phủ so với GDP ngày càng tăng lên từ mức khoảng 21,6% năm 1998 lên mức đỉnh 33,4% năm 2009 và 32,15% năm 2010. Tỷ lệ chi tiêu so với GDP tăng lên cũng đồng nghĩa với việc nhu cầu chi tiêu của chính phủ tăng nhanh hơn mức tăng của GDP. Nói cách khác, nhu cầu chi tiêu của chính phủ đang có khuynh hướng tăng nhanh hơn lượng của cải mà nền kinh tế có khả năng tạo ra. Trong khi đó, các khoản thu ngân sách hàng năm của chính phủ luôn chiếm tỷ lệ thấp hơn trong GDP so với chi tiêu. Điều này cũng có nghĩa là Chính phủ Việt Nam luôn phải gánh chịu bội chi ngân sách triền miên, ít nhất là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á đến nay. Tỷ lệ bội chi ngân sách đạt mức đỉnh điểm gần 8,9% GDP năm 2009 khi Việt Nam đối mặt với tình trạng suy giảm kinh tế và buộc phải đưa ra gói kích thích kinh tế quy mô lớn.
Tình trạng bội chi ngân sách cao và kéo dài trong nhiều năm trong khi tăng trưởng kinh tế bình quân nhìn chung không cao đã dẫn đến hệ quả tất yếu là tỷ lệ nợ trên GDP của Chính phủ cũng liên tục tăng lên. Hình 3 cho thấy tỷ lệ nợ gộp trên GDP của Chính phủ Việt Nam tăng rất nhanh từ mức chỉ khoảng 31,6% GDP năm 2001 nay đã lên đến trên 50% GDP. Điều đáng nói là dường như có một sự chủ quan nào đó được thể hiện qua các phát biểu của các quan chức Chính phủ. Khi tỷ lệ nợ công khoảng 30% GDP thì người ta cho rằng 40% mới đáng ngại nhưng khi tỷ lệ này lên trên 40% thì người ta lại nói rằng 50% mới là chuẩn an toàn của thế giới, rồi một lần nữa khi cái chuẩn an toàn này bị phá vỡ vào năm 2009 thì người ta lại đề xuất mức chuẩn an toàn của Việt Nam phải là 60% GDP. Hình 3 cũng cho thấy tỷ lệ nợ ròng so với GDP của chính phủ cũng tăng lên liên tục qua các năm nhưng quan trọng hơn tỷ lệ này có khuynh hướng tăng nhanh hơn tỷ lệ nợ gộp từ năm 2008 trở lại đây do các tài sản và dự trữ tài chính của Chính phủ liên tục sụt giảm.

PD 01
Hình 1. Thu chi ngân sách và vay ròng của Chính phủ Việt Nam (% GDP) .
PD02


Hình 2. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam và các nước so sánh (% GDP)

PD03


Hình 3. Tỷ lệ nợ gộp và nợ ròng của Chính phủ Việt Nam (% GDP)

PD04


Hình 4. Thâm hụt vãng lai và tỷ lệ nợ nước ngoài của Việt Nam (% GDP)
So sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á (Hình 5) cho thấy, tỷ lệ nợ công gộp trên GDP của Việt Nam hiện chỉ đứng sau Singapore, Malaysia và Lào, trong khi cao hơn rất nhiều so với các nước còn lại. Nếu như việc so sánh với Singapore tỏ ra khiêng cưỡng vì đây là một nước đã phát triển có thu nhập đầu người rất cao và năng lực tài chính khá bền vững thì tỷ lệ nợ công của Lào và Malaysia cao hơn Việt Nam không đáng kể, thậm chí tỷ lệ nợ công của Lào đang có khuynh hướng cải thiện. Bức tranh cũng tương tự nếu so sánh với các nước và nhóm nước khác (Hình 6). Năm 2010, tỷ lệ nợ công gộp trên GDP bình quân của thế giới là 46,7%, của các nước đang phát triển và mới nổi là
35,09%, còn các nước đang phát triển Châu Á chỉ là 31,03%, trong khi Việt Nam là 52,85%. Riêng đối

với Trung Quốc, một nước có thể chế chính trị tương đồng với Việt Nam và cũng có quy mô khu vực công rất lớn nhưng tỷ lệ nợ công gộp trên GDP của nước này năm 2010 chỉ là 17,71%.

PD06
Hình 5. Nợ công của Việt Nam so sánh với các nước ASEAN (% GDP)
pd

Hình 6. Nợ công của Việt Nam so với các nhóm nước khác (% GDP)
Trong cơ cấu nợ công của Việt Nam thì nợ nước ngoài luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn. Năm 2009, tỷ trọng nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ công của Việt Nam khoảng gần 62,58% và ước tính tỷ trọng của năm 2010 tăng lên gần 65%. Điều cần nói thêm là trong cơ cấu nợ nước ngoài của Việt Nam thì tỷ trọng nợ của khu vực chính phủ chiếm đến trên dưới 80%, trong khi khu vực tư nhân chỉ chiếm khoảng 20%. Mặc dù tỷ trọng nợ của khu vực chính phủ đã có phần giảm đi nhưng tỷ trọng này vẫn còn rất cao. Vấn đề quan trọng nằm ở năng lực quản lý nợ và hiệu quả sử dụng nợ vay của các khu vực. Mặc dù niềm tin của thị trường thường đặt trọng số lớn hơn vào khu vực chính phủ nhưng điều này không đồng nghĩa với việc nợ vay sẽ sử dụng và quản lý tốt hơn ở khu vực công so với khu vực tư nhân. Điều đáng lưu ý là trong cơ cấu tỷ lệ nợ nước ngoài của Chính phủ thì tỷ trọng nợ do chính phủ bảo lãnh đang ngày càng tăng nhanh từ mức khoảng 7% năm 2006 lên 14,29% năm 2010. Trong cơ cấu của các khoản vay mới, các khoản nợ nước ngoài do chính phủ bảo lãnh thậm chí còn chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều và đạt mức 18,5% năm 2010. Một điều cũng đáng lo ngại nữa là gánh nặng lãi vay đối với các khoản nợ nước ngoài do chính phủ bảo lãnh thường rất cao, từ mức chỉ khoảng 13,08% trong cơ cấu trả lãi vay năm 2006 thì năm 2010 đã lên đến 32,07%. Điều này một phần là do lãi suất đối với các khoản vay do chính phủ bảo lãnh thường rất cao khoảng gấp 2 đến 3 lần mức lãi suất khoản vay của chính phủ.
Bảng Lãi suất hiệu dụng của các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam.

bang 2


Tỷ trọng nợ nước ngoài lớn trong cơ cấu nợ công của Việt Nam còn đặt ra một rủi ro lớn khác bên
cạnh cạnh rủi ro lãi suất đó là rủi ro tỷ giá. Nếu tình trạng này không được xử lý tốt sẽ đặt Việt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan đối với chính sách tỷ giá. Nghĩa là, nếu tiền đồng bị giảm giá sẽ làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của Việt Nam nói chung và nợ nước ngoài của Chính phủ nói riêng nhưng nếu níu kéo tỷ giá sẽ càng làm tăng áp lực lên cán cân thương mại vốn đã thâm hụt kéo dài.

PD08

Hình 7. Cơ cấu nợ nước ngoài giữa hai khu vực của Việt Nam
Hệ lụy:
Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài liên tục trong hàng chục năm là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng gánh nặng nợ công ở Việt Nam. Từ năm 2009 khi tăng trưởng kinh tế xấu đi thì việc phải đưa ra gói kích thích kinh tế quy mô lớn là tác nhân quan trọng đẩy tỷ lệ nợ trên GDP của Việt Nam vượt quá chỉ báo trung bình 50% GDP của thế giới. Tỷ lệ nợ công tăng lên sẽ làm giảm mức hạng tín nhiệm của chính phủ, từ đó làm tăng chi phí vay vốn. Nợ công tăng và lãi suất tăng trong khi tăng trưởng kinh tế thấp sẽ lại làm tăng tỷ lệ nợ công trên GDP. Trò chơi Ponzi đầy rủi ro xuất hiện khi chính phủ đi vay nợ mới chỉ đủ để trang trải chi phí lãi vay của nợ cũ. Khi đó, nguồn tài trợ duy nhất còn hiệu lực đối với chính phủ là in thêm tiền. In tiền sẽ làm tăng sức ép lạm phát và buộc ngân hàng trung ương phải thắt chặt tiền tệ. Thắt chặt tiền tệ tất yếu dẫn đến gia tăng lãi suất mà điều này cũng đồng nghĩa với việc gia tăng gánh nặng trả lãi lên ngân sách. Trong trường hợp này thì chính sách tiền tệ đã bị vô hiệu hóa và chính sách tài khóa mới là nhân tốt quyết định mức giá chung của nền kinh tế. Trong khi đó, việc gia tăng vay nợ nước ngoài của chính phủ không những phải đối mặt với rủi ro lãi suất mà còn là rủi ro tỷ giá. Chính sách phá giá tiền tệ tất yếu sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ trong ngắn hạn nhưng lại giúp cải thiện tình trạng của cán cân vãng lai. Tuy nhiên, nếu tiếp tục níu giữ tỷ giá sẽ không chỉ làm trầm trọng hơn nữa tình trạng thâm hụt của cán cân vãng lai mà còn tạo động cơ khuyến khích việc gia tăng các khoản nợ mới.
Theo ĐỖ THIÊN ANH TUẤN FULBRIGHT ECONOMICS TEACHING PROGRAM

No comments:

Post a Comment